Từng nghe chuyện có người bước xuống xe khách, nhìn một phát là biết ai quê Bình Định xứ Nẫu đi vào. Hỏi sao chỉ nhìn mà biết được, thì hắn ta bảo, cứ nhìn đứa nào xách mấy ràng bánh tráng, bên trong bỏ lọt một chai nước mắm, treo kè kè bên vali là đích thị dân “nẫu” rồi. Tôi nghe mà cười ngặt nghẽo, không cãi được. Làm sao cãi khi tay tôi lúc đó cũng đang xách nửa lít nước mắm cá cơm mẹ tự tay ướp, một ràng bánh tráng năm mươi cái nhà làm vào phòng trọ. Mỗi lần ngẫm lại phát hiện lý thú ấy, tôi cứ thấy vừa ngộ vừa thương. Trời ơi! Sao mà thương đất mình quá đi mất!
Nhà tôi đã bao đời cắm rễ ở xứ gió cát Bình Định, ba đời gần nhất đều làm bánh tráng. Nội tôi làm bánh tráng “nhứt” đổ bằng bột sắn mì, bột đem hấp chín còn dẻo hơn hồ dán. Ngoại tôi làm bánh tráng mè để nướng lửa than. Bánh mè đen thì trộn đầy mè đen hin như mọt trấu, bánh mè trắng thì phơi khô vẫn đổ dầu bóng lưỡng, hơi ngả vàng. Rồi má tôi cũng làm bánh tráng. Người nối nghiệp ngoại, làm được một ngày là làm suốt hai mươi năm.
Nói thật, tôi ghét cái bánh tráng nhà mình làm kinh khủng. Tại vì nó mà những trưa nắng đứa con gái mười bốn tuổi phải đội mặt trời đi vác bánh vô từ giàn phơi. Nào nắng nào gió, nào bụi đường, nào mưa giông, ngày nào cũng như ngày nấy. Vác sớm thì bánh chưa khô, cong vểnh cong veo, nhiều khi thun lại chỉ bằng cái đĩa. Vác muộn thì bánh giòn như kính mỏng, đụng tay vô là vỡ tan tành, chẳng còn gỡ gạc gì được nữa. Thế là mỗi trưa, cả nhà tôi đều ăn cơm “chạy” hết thảy. Bưng chén húp miếng canh xong là thả đũa đi gom bánh. Nhiều khi đang húp giữa chừng, cọng rau chưa xuống cổ đã vội đi đỡ một tấm phên bị gió quật bay. Bánh gần khô rồi, bay xuống khỏi giàn là rớt rụng bể hết.
Hồi còn nhỏ, chỉ bằng nửa số tuổi bây giờ, tôi hay thèm một bữa cơm trọn vẹn cơm canh, đừng có bánh tráng chen ngang. Nhất là chen kiểu bỏ cơm đi lấy bánh. Dù là bỏ cơm để đi gom bánh, hay bỏ cơm để ăn bánh thì cũng không được. Má tôi hay có kiểu thế. Nấu ít cơm đi đặng cuối buổi nhúng cái bánh tráng ăn bồi vào. Tôi nhìn gạo và bột chất đầy nhà, vô tâm hỏi: nhà mình hết tiền rồi hả má. Má chỉ cười cười. Bột, gạo đấy để tráng bánh, chứ ăn không có ngon đâu con. Nghe xong, tôi nhăn nhó cúi đầu.
Sau này tôi mới biết, không hẳn là má tôi tiếc gạo. Có tiếc, chắc cũng chỉ tiếc một chút thôi. Bởi vì má phải tiếc bánh hơn chứ, cũng có khi má tôi thèm bánh thật. Đang làm bánh, ở giữa chồng chồng bánh mà cũng thèm ngang ngược. Thế mới nói người Bình Định xa quê, nhiều khi thèm bánh tráng đến chảy nước miếng trong mơ không phải là nói quá. Người ta thèm thứ đặc sản đã dầm mình trong cái nắng rát da rát thịt của quê hương để trở nên cứng cáp dễ gói ghém, chuyên chở. Người ta thèm một thứ có đủ ngọt bùi, đầy đặn đã gắn liền với những ngày trời nóng không ăn nổi cơm, hay không có cơm để ăn suốt ấu thơ nghèo đói. Người thèm là thèm ký ức và kỷ niệm, chứ bánh tráng ngon ăn thay cơm được thật thì cũng có ai bỏ lúa gạo đi ăn bánh suốt đời?
Dẫu sao, đối với tôi ăn bánh tráng cũng là ăn một sự trân trọng. Một cái danh xưng bánh tráng thôi, ở Bình Định có đủ chủng đủ loại muôn màu muôn vẻ. Phải biết đất ấy lắm thiên tai, làm ra hạt lúa đã nhọc nhằn, làm được cái bánh tráng ngon còn cực khổ hơn gấp mười lần. Thế mà người nông dân có chịu thua đâu, phải chế ra đủ loại từ bánh tráng mè, bánh tráng dừa, bánh tráng gạo, bánh tráng nhứt, bánh tráng mì đến bánh tráng khoai lang lạ lẫm. Nghĩ đến tương truyền mùa xuân ấy đoàn quân của Hoàng Đế Quang Trung đã lấy bánh tráng làm lương khô trong cuộc hành quân thần tốc, tôi chợt thấy cảm động. Phải chăng cái món bánh tráng hào hùng kia là kết tinh của bao nhiêu là kỳ công và nhẫn nại của hằng hà sa số những nghệ nhân làm bánh trên đất này?
Thì cứ nhìn mà xem, ẩm thực Bình Định vốn không cầu kỳ, thậm chí đem so với các xứ khác còn có vẻ cục mịch quê mùa, ngồ ngộ. Cái nem cái chả nâng niu là vậy, khi ăn cũng chỉ bày ra với nước mắm và mấy lát tỏi tươi cho dậy vị, chứ có đem làm trộn làm gỏi như các nơi khác bao giờ. Rồi cái bánh tráng, nói ăn thay cơm là rặt một điều bánh tráng, không thêm thắt gì khác. Nhiều khi, không có gì cuốn, dân “Nẫu” đem bánh tráng nhúng cuốn bánh tráng nướng, chấm nước mắm mặn. Ăn đơn giản vậy thôi mà cũng thành bữa, cũng khiến người ta thấy như được hậu đãi vậy. Mọi tỉ mẩn, công phu, kinh nghiệm đã dồn hết vào cái quá trình chế biến cầu kỳ, để khi thưởng thức người ta chỉ cần bẻ một miếng là đủ nghiền ngẫm, thương nhớ suốt nửa đời liền. Mà đâu chỉ người ăn thương, đến những người làm bánh cũng thương tha thiết, thủy chung không chịu bỏ nghề.
“Hay má dẹp lò, nấu chè bán cho rồi…”
Má hay nói bỏ nghề vào những mùa mưa, bánh không phơi được phải chất củi sấy. Những mùa mưa chẳng dài, nhưng buồn miên man, mịt mùng. Chị em tôi mỗi lần nghe má nói bỏ làm bánh đều hớn hở cổ vũ, dù biết má cũng chỉ nói chơi, vẫn níu nghề không buông. Chúng tôi biết má thích nấu chè đấy, nhưng rồi ai cũng biết chỗ này người ta ít ăn bánh trái xôi chè. Cơm ăn quanh năm được, bánh tráng cũng vậy, nhưng xôi chè đâu ăn được thay cơm. Bánh tráng đã giúp ba má chèo chống nuôi bốn đứa con nhỏ nheo nhóc, má có muốn cũng không dám bỏ nghề.
Quê hương Bình Định (Ảnh tác giả tự chụp)
Thế nên dù ghét dù thương bánh tráng cứ là quê hương. Cứ là một cái gì đó gói ghém ân nghĩa của một vùng đất quá sức chân chất, thật thà: nhà ai có người đi xa cũng ráng gói cái nem, dúi mớ bánh với mắm cá đặng đường xa bẻ ăn cho đỡ đói. Dẫu cho nghĩ kỹ thì khó có chỗ bày ra để ăn được, “nẫu” vẫn tươi cười nhận liền. Bởi xa nhà chỗ nào cũng thấy lạ, phải xách theo mớ bánh để có cái mình còn quen, coi như là an ủi. Để những chiều thành phố mưa buồn rười rượi, lôi bánh tráng ra nhúng sơ nước máy, làm một chén nước mắm Đề Gi cay thiệt cay với ớt hiểm, ngồi nhai nhai hít hà, nhớ quê không chưa biết, nhìn mặt nước mắt nước mũi đã tèm lem.
Tên tác giả: Thanh Ly
Tuổi: 22
Quê quán: Bình Định

ĐƯA VĂN VÀO ĐỜI 2024 – NHỮNG DẤU ẤN ĐÁNG NHỚ

Quá trình sáng tạo văn học: Viết để phản tư
Quá trình sáng tạo văn học: Viết để kết nối
